[Xã hội-Báo Biên phòng] - "Hổ" ẩn giữa Sài Gòn

Cuộc thâm nhập nội đô Sài Gòn lần thứ 2 của Tư Hổ - Nguyễn Văn Lệnh thành công cũng chính là thời điểm mở đầu cho một cuộc chiến đấu mới của ông: Đánh địch trong lòng địch. Sau khi thâm nhập vào nội đô Sài Gòn lần thứ 2, Tư Hổ được giao nhiệm vụ mua nhà, đào hầm bí mật để chứa vũ khí.

Bài 1: Thâm nhập Sài Gòn

Bài 2: Chiến đấu trong lòng địch


Công việc được tiến hành một mình, không có ai giúp đỡ và phương tiện hỗ trợ. Đây là nhiệm vụ rất khó khăn, bởi trong tình thế Mỹ - ngụy kiểm soát gắt gao, chỉ cần lộ đất đào hầm cũng có thể bị bắt, giam giữ ngay. Hơn thế nữa, ngôi nhà ông mua ở số 116/2, ấp Phú Trung 3, xã Phú Thọ Hòa, Sài Gòn lại sát chân tường nhà một tên đại tá công binh ngụy. Vậy làm sao vừa đào được hầm, vừa giữ được bí mật?

Rốt cuộc, cái khó không khuất phục người lính trinh sát vũ trang tài trí ấy. Sáng kiến của ông là: Đào hầm trong nhà, nhưng không đổ đất đi mà đào để tôn nền. Để giữ bí mật, cách tốt nhất là tiến hành làm công khai khiến địch không ngờ tới: Dưới danh nghĩa đào đất làm công trình phụ, ông đã tiến hành đào hầm để chế tạo và chứa vũ khí. Ngay người nhà của tên đại tá công binh bên cạnh thỉnh thoảng sang thăm dò, nhưng sau đó cũng không nghi ngờ gì nữa. Ông làm việc quên ăn, quên ngủ với thời khóa biểu: Không ngày, không giờ, không đêm với ý chí và quyết tâm thôi thúc: "Có hầm chứa vũ khí mới đánh được địch!". Chỉ sau hơn 2 tháng, ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Sau Tết Mậu Thân 1968, Mỹ - ngụy ngông cuồng tuyên bố: Đã đánh bại và quét sạch Việt cộng ra khỏi miền Nam Việt Nam; Sài Gòn - Gia Định là vùng đất bất khả xâm phạm.

Đầu năm 1969, trinh sát vũ trang nội đô B5 được Thành ủy và Ban An ninh T4 giao nhiệm vụ tiêu diệt những tên đầu sỏ Mỹ - ngụy trong nội đô. Mục tiêu đầu tiên là Linh Quang Viên, Trung tướng tình báo, Tổng trưởng Nội vụ, Phụ tá an ninh của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Mục tiêu đề ra là phải thắng và bảo toàn lực lượng để tiếp tục chiến đấu.
Để thực hiện kế hoạch, Tư Hổ vừa tiến hành trinh sát, vừa suy nghĩ: Dùng vũ khí nào để đánh, dùng bao nhiêu người và quan trọng nhất là cách đánh, nếu không có cách đánh phù hợp cũng có nghĩa là chết.

Cuối cùng, Tư Hổ quyết định áp dụng chiến thuật "xuất quỷ nhập thần, thiên biến vạn hóa". Vũ khí sử dụng là vũ khí thô sơ do chính Tư Hổ cải tạo, đó là 2 trái mìn với vỏ trái làm bằng vỏ lon sữa bò khô, bên trong nhồi thuốc nổ và thay bi bằng những mảnh chảo gang đã được cắt ra để tăng tính sát thương; đồng thời, ông cắt ngắn dây cháy chậm để thay vì mìn nổ sau 6 giây, sẽ chỉ nổ sau 3 giây khiến địch không kịp trở tay. Đó là một thành quả, thể hiện sự tài trí, sáng tạo của Tư Hổ trong điều kiện thực tế.

2 trái mìn tự tạo, ông giao cho đồng chí Hai Đường (tức Lê Việt Bình) và Út Cạn (tức Nguyễn Văn Cạn), nhưng không quy định ai đánh mà linh hoạt ai có thời cơ thì đánh.

Gia đình đồng chí Nguyễn Văn Lệnh - Tư Hổ.

Lúc này, ta đã tiến hành trinh sát nắm được quy luật đi lại của Linh Quang Viên và cho thực tập phương án tấn công. Đúng sáng 1-2-1969, 5 đồng chí trinh sát An ninh vũ trang do đồng chí Tư Hổ trực tiếp chỉ huy, tấn công xe chở Linh Quang Viên được hai xe Jeep hộ tống phía sau tại ngã tư Bà Huyện Thanh Quan - Phan Thanh Giản. Mìn nổ, bọn địch không kịp trở tay, 5 đồng chí rút lui an toàn bằng xe máy. Trận đánh đã làm rúng động Sài Gòn, bởi Việt cộng đã tấn công ngay trong nội đô và giữa ban ngày.

Ngày hôm sau, qua báo chí, các chiến sĩ Đội trinh sát An ninh vũ trang B5 biết được viên tướng trong xe không phải là Linh Quang Viên, mà là Thiếu tướng Nguyễn Văn Kiểm, Tham mưu trưởng Biệt bộ Phủ Tổng thống. Nguyễn Văn Kiểm bị thương nặng và bị chết khi ra nước ngoài điều trị.

Sau chiến công đầu tiên, B5 lại nhận được lệnh tiêu diệt Thủ tướng Việt Nam cộng hòa Trần Văn Hương. Thời gian vừa trinh sát, vừa chuẩn bị chỉ trong khoảng 1 tháng. Với cương vị cao cấp, Trần Văn Hương mỗi lần di chuyển đều có hơn chục xe hộ tống, xe thiết giáp có cả đại bác bắn thẳng và 6-7 xe công lộ dẹp đường, cách 5m là một tên lính cầm súng sẵn sàng chiến đấu, chưa kể bọn phòng vệ dân sự, do thám, thám báo dày đặc.

Khó khăn về vũ khí lại được đặt ra. Để đánh địch lần này, cần chế tạo mìn định hướng nặng 25kg (trong vụ đánh tên Kiểm, trái mìn chỉ nặng 1kg). Trong khi đó, không thể nhờ bên quân khí chế tạo xong rồi đưa vào nội đô, vì địch đã tăng cường kiểm tra, kiểm soát hết sức gắt gao; cũng không thể đưa người vào nội đô để chế tạo, vì rất dễ bị lộ cơ sở. Cuối cùng, đồng chí Ba Hiệp giao cho Tư Hổ nhiệm vụ khó khăn này, đồng thời động viên: "Chẳng lẽ chú Tư và anh em mình chịu bó tay? Hiện nay, Đảng, Nhà nước, nhân dân miền Nam đang trông chờ chú đấy! Chú còn nhớ câu nói của chú khi làm trinh sát ở Trung đoàn 238 thời đánh Pháp không? Ước mơ, hoài bão của chú là chở cả 1 xe vũ khí vào Hà Nội đánh bọn đầu sỏ Pháp. Lúc này, chú có điều kiện để thực hiện ước mơ đó đấy. Cố gắng lên!".

Để chế tạo trái nổ 25kg, Tư Hổ đã mày mò "học mót" cách gò hàn, rồi ông thực hành cắt, ghép với báo, với tôn mỏng rồi tôn dày; làm từ trái nhỏ tới trái to. Ông làm ngày, làm đêm "khi nào mệt quá thì lăn ra ngủ ngay dưới hầm". Cuối cùng, ông cũng tạo được trái mìn định hướng ĐH 25kg chứa thuốc nổ C4.

Kế hoạch ám sát được đề ra khá chi tiết. Địa điểm là ngã ba Nguyễn Du - Cường Để (nay là đường Tôn Đức Thắng, quận 1), vào tầm 12 giờ 30 phút, mùng 6 Tết, tức là ngay sau khi vừa hết thời hạn 2 bên tạm đình chiến để ăn Tết. Vũ khí chính là trái mìn định hướng 25kg do Tư Hổ chế tạo, ngoài ra còn dùng 2 trái mìn 1kg, một lựu đạn Mỹ và 1 súng côn nhằm đánh lạc hướng, chia cắt đội hình địch.

Tuy nhiên, kế hoạch đã phải thay đổi vì Trần Văn Hương thay đổi quy luật làm việc. Trận đánh diễn ra vào ngày 5-3-1969, muộn hơn 3 ngày so với dự kiến. Tới khi đội ám sát tiến hành áp sát và tấn công đoàn xe của Trần Văn Hương thì mìn không nổ, do mấy ngày ra quân không gặp được đối tượng, ta không lấy kíp nổ ra nên chất dầu trong C4 làm hỏng dây cháy chậm. Trần Văn Hương thoát chết trong gang tấc, nhiều đồng chí trong B5 bị bắt. Cho tới bây giờ, trận đánh không thành công ấy vẫn là ký ức không thể quên với Tư Hổ - Nguyễn Văn Lệnh.

Ngoài hai trận đánh trên, ông còn chế tạo mìn và tham gia nhiều trận đánh khác của Trinh sát vũ trang B5. Mùa xuân năm 1969, những trái mìn tự tạo thô sơ nổ giữa ban ngày, trong lòng Sài Gòn - hang ổ của Mỹ - ngụy, đã bịt miệng quan thầy Mỹ - ngụy khiến chúng hết ba hoa. Dư chấn của những vụ ám sát giữa nội đô đã khiến cho bọn quan chức, tướng lĩnh của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và quân Mỹ muốn làm việc với nhau cũng không dám đi đường bộ mà phải dùng máy bay lên thẳng từ nóc Dinh Độc Lập sang nóc nhà Đại sứ quán Mỹ để gặp nhau.

Cuộc sống của Tư Hổ - Nguyễn Văn Lệnh của thời hậu chiến thật giản dị và khiêm nhường. Chúng tôi gặp ông tại ngôi nhà mà theo ông nói, do hai vợ chồng "chung lưng đấu cật" làm nên, ngôi nhà ẩn sâu trong con ngõ nhỏ ở Lĩnh Nam - Hoàng Mai - Hà Nội. Vẫn vóc người nhỏ bé, đôi mắt tinh anh, dù đã hơn 80 tuổi, nhưng ông vẫn nhanh nhẹn lắm.

Tư Hổ xưa khiến địch run chân giữa Sài Gòn thì nay là một ông Thiếu tá về hưu, vui vầy với gia đình, chòm xóm. Mỗi khi có thời gian, ông lại rong ruổi mọi miền đất nước tìm mộ liệt sĩ, một công việc thầm lặng xuất phát từ tình đồng chí, đồng đội, từ tình cảm nhân văn giữa con người với con người. Ông tâm sự: "Anh em mình vào đó mới 17, 18 tuổi thôi, nhưng hy sinh nhiều quá, rất thương xót…". Ông đã cung cấp nhiều thông tin về mộ liệt sĩ cho lực lượng BĐBP và Bộ Công an.

Ông kể cho chúng tôi nghe về hai cuộc chiến, về những trận đánh ông đã trải qua. Đôi mắt người cựu chiến binh già bừng sáng, giọng nói đầy nhiệt huyết, tự hào. Ông vẫn còn nhớ như in những trận chiến đã trải qua để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Những ngày trở lại Sài Gòn, gặp lại bà con những nơi trước kia ông chiến đấu, có người băn khoăn sao Tư Hổ vẫn chưa được phong Anh hùng. Ông chỉ cười: "Có bà con phong tôi làm Anh hùng là tốt rồi!".

Trần Mai